TẠI SAO MẸ BẦU CẦN DỰ PHÒNG SỚM CÁC BỆNH LÂY TRUYỀN TỪ MẸ SANG CON NHƯ HIV, VIÊM GAN B, GIANG MAI?

Hằng năm, trên thế giới cũng như tại Việt Nam vẫn còn số lượng không nhỏ trẻ sinh ra bị nhiễm hoặc có nguy cơ lây nhiễm HIV, viêm gan B, giang mai từ mẹ trong khi các bệnh này hoàn toàn có thể phòng tránh được thông qua các can thiệp sẵn có và đơn giản như xét nghiệm sàng lọc, quản lý điều trị phụ nữ có thai bị nhiễm bệnh và tiêm chủng cho trẻ ngay sau sinh. Mỗi năm, Việt Nam có khoảng gần 2 triệu phụ nữ mang thai và ước tính có hơn 3.800 phụ nữ mang thai nhiễm HIV. Nếu không có can thiệp thì với tỷ lệ lây truyền HIV từ mẹ sang con khoảng 30-40%, tức mỗi năm Việt Nam có khoảng 1.140-1.520 trẻ em sinh ra nhiễm HIV từ mẹ. Tuy nhiên, nếu được can thiệp sớm bằng xét nghiệm sàng lọc sớm trong thai kỳ, điều trị thuốc dự phòng kịp thời, đầy đủ có thể giảm tỉ lệ lây truyền từ mẹ sang con xuống dưới 2%.

 

1. Những hậu quả nghiêm trọng của các bệnh lây truyền từ mẹ sang con

HIV, viêm gan B, giang mai là các bệnh lây truyền qua qua đường tình dục và lây truyền dọc từ mẹ sang con. Bệnh có thể gây tử vong hoặc mắc bệnh suốt đời ở trẻ em. Cụ thể:

  • HIV gây tử vong ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Gần 1/3 trẻ sơ sinh nhiễm HIV từ mẹ sẽ tử vong trước sinh nhật đầu tiên. Bệnh kéo dài suốt đời cả ở những trẻ được chẩn đoán và điều trị kịp thời.
  • Trẻ sơ sinh bị nhiễm viêm gan B từ giai đoạn chu sinh có tới 90% nguy cơ phát triển thành viêm gan mạn tính với nguy cơ biến chứng cao sau này thành ung thư gan, xơ gan, suy gan…
  • Người mẹ mang thai bị nhiễm giang mai thường bị sảy thai, thai lưu, đẻ non, trẻ sơ sinh nhẹ cân, thâm chí tử vong ngay sau sinh.

 

2. Các biện pháp dự phòng lây nhiễm các bệnh truyền nhiễm từ mẹ sang con

2.1. Bệnh HIV:

Phụ nữ mang thai nhiễm HIV cần được điều trị thuốc kháng vi rút HIV càng sớm càng tốt, tuân thủ điều trị để giảm tải lượng virut HIV bằng phác đồ hiệu quả theo hướng dẫn của Bộ Y tế.

Phụ nữ mang thai có kết quả xét nghiệm HIV có phản ứng khi chuyển dạ cần được điều trị dự phòng ARV ngay, đồng thời lấy máu và chuyển làm xét nghiệm khẳng định nhiễm HIV. Nếu xét nghiệm HIV của mẹ khẳng định âm tính thì ngừng điều trị.

Điều trị dự phòng ARV cho con: Con sinh ra từ mẹ nhiễm HIV hoặc bà mẹ có kết quả xét nghiệm sàng lọc HIV có kết quả phản ứng khi chuyển dạ cần được điều trị dự phòng bằng thuốc kháng HIV ngay sau khi sinh và được chẩn đoán sớm nhiễm HIV.

Mẹ bị nhiễm HIV có thể cho con bú nhưng phải được điều trị bằng thuốc ARV và tuân thủ tốt để đạt tải lượng HIV dưới ngưỡng ức chế, tốt nhất là dưới ngưỡng phát hiện. Trẻ cần được bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu, cho trẻ ăn bổ sung khi trẻ tròn 6 tháng tuổi và tiếp tục bú mẹ đến 12 tháng.

Người mẹ chỉ nên nuôi con bằng sữa thay thế nếu: có sự hỗ trợ từ gia đình; Có nguồn cung cấp sữa đầy đủ trong 6 tháng đầu, có nước sạch và chuẩn bị được sữa ăn thay thế đảm bảo an toàn, hợp vệ sinh và đủ số lượng phù hợp với tuổi của trẻ.

2.2. Bệnh viêm gan B:

Phụ nữ mang thai bị nhiễm viêm gan B cần được chuyển đến chuyên khoa truyền nhiễm hoặc cơ sở chăm sóc và điều trị các bệnh về gan để đánh giá tình trạng bệnh viêm gan B, xem xét chỉ định điều trị bệnh hoặc điều trị dự phòng lây truyền HBV từ mẹ sang con theo Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị viêm gan vi rút B của Bộ Y tế.

Tất cả trẻ sơ sinh cần được tiêm vacxin viêm gan B, đồng thời trẻ sinh ra từ mẹ mắc viêm gan B cần được tiêm kháng huyết thanh viêm gan B trong vòng 24 giờ sau sinh. Vắc xin viêm gan B và kháng huyết thanh viêm gan B có thể tiêm đồng thời nhưng tại 2 vị trí khác nhau.
Trẻ sinh ra từ mẹ nhiễm viêm gan B cần được theo dõi, làm xét nghiệm phát hiện nhiễm viêm gan B và đáp ứng kháng thể khi trẻ 7-12 tháng tuổi hoặc sau liều vacxin cuối cùng 3 tháng.

 

2.3. Bệnh giang mai:

Phụ nữ mắc giang mai cần được điều trị càng sớm càng tốt khi phát hiện bệnh.

Trẻ sinh ra từ mẹ nhiễm giang mai cần được theo dõi, khám lâm sàng và phát hiện các triệu chứng nghi ngờ giang mai bẩm sinh.

Trẻ cần được điều trị trong các trường hợp: Trẻ được chẩn đoán lâm sàng giang mai bẩm sinh; trẻ có biểu hiện lâm sàng bình thường nhưng mẹ được chẩn đoán và điều trị muộn trong vòng 4 tuần trước sinh.

 

3. Khuyến cáo dành cho mẹ bầu và gia đình trong dự phòng các bệnh lây truyền từ mẹ sang con

3.1. Xét nghiệm sàng lọc sớm trong thai kỳ:

Cả 3 bệnh kể trên đều cần sàng lọc phát hiện mẹ mắc bệnh sớm trong khi có thai, tốt nhất là trong 3 tháng đầu thai kỳ. Có sàng lọc mới phát hiện sớm bệnh để áp dụng các can thiệp điều trị dự phòng đem lại hiệu quả cao nhất là giảm lây truyền cho con.

Chẳng hạn mẹ nhiễm HIV sẽ bắt đầu điều trị từ tháng thứ 4 của thai kỳ bằng thuốc kháng virus đặc hiệu.

Mẹ nhiễm viêm gan B thì tùy tải lượng virus trong máu, thầy thuốc chỉ định điều trị thuốc kháng virus ngay hay trì hoãn, theo dõi. Bác sĩ cúng ẽ hướng dẫn lựa chọn cơ sở y tế thích hợp để sinh, đảm bảo cho con được tiêm ngay kháng huyết thanh virus trong vòng 24 giờ sau sinh đồng thời tiêm vaccine viêm gan B (kháng huyết thanh virus viêm gan B không có sẵn tại các cơ sở y tế).

Mẹ nhiễm giang mai thì điều trị ngay để phòng các biến chứng sớm như sẩy thai, thai tử lưu có thể xảy ra từ tháng thứ 5 của thai kỳ hoặc trẻ mắc giamg mai bẩm sinh.

 

3.2. Chăm sóc, theo dõi trẻ sau sinh hợp lý từ mẹ có bệnh

Với mẹ nhiễm HIV: Khuyến cáo không nuôi con bằng sữa mẹ, trừ trường hợp không đủ điều kiện nuôi trẻ bằng sữa nhân tạo, những trường hợp đặc biệt cần cân nhắc giữa nguy cơ nhiễm HIV cho trẻ và lợi ích từ việc nuôi con bằng sữa mẹ. Nếu nuôi con bằng sữa thay thế sữa mẹ thì cần cung cấp đủ sữa thay thế trong 6 tháng đầu, có nước sạch, chuẩn bị được bữa ăn thay thế đảm bảo an toàn, hợp vệ sinh, phù hợp với độ tuổi của trẻ. Nếu nuôi con bằng sữa mẹ thì mẹ phải được điều trị bằng thuốc kháng vius và tuân thủ điều trị tốt để tải lượng virus đạt dưới ngưỡng ức chế, tốt nhất dưới ngưỡng phát hiện. Tuyệt đối không cho trẻ vừa bú sữa mẹ vừa bú sữa thay thế!

Với mẹ nhiễm virus viêm gan B: Tiêm kháng huyết thanh virus và vaccine viêm gan B trong 24 giờ đầu sau sinh, tiêm cùng thời điểm ở 2 vị trí khác nhau; cho trẻ bú sữa mẹ; cho trẻ xét nghiệm HBsAg và anti-HBs từ 12 tháng tuổi để xác định tình trạng nhiễm viêm gan B và đáp ứng kháng thể.

Với mẹ nhiễm giang mai: Cho trẻ bú mẹ; khám sàng lọc triệu chứng giang mai bẩm sinh ở trẻ. Nếu trẻ sinh ra bình thường, tùy tiền sử điều trị giang mai của mẹ, thầy thuốc sẽ tư vấn theo dõi và điều trị dự phòng cho trẻ, tuy nhiên trẻ vẫn phải được khám theo dõi nhiều lần cho đến 9 tháng tuổi.

Tags:

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *